Tuyến đường sắt ven biển
Quy hoạch cũng nêu rõ ưu tiên nâng cấp, hiện đại hóa tuyến đường sắt để đạt tốc độ chạy tàu bình quân 80-90km/h đối với tàu khách và 50-60km/h đối với tàu hàng. Hoàn thành tuyến đường sắt Yên Viên- Phả Lại- Hạ Long- Cái Lân dài khoảng 129km. Nghiên cứu xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc Nam trong đó ưu tiên xây dựng trước đoạn Hà Nội- Vinh.
Đồng thời đảm bảo tiến độ xây dựng các tuyến đường sắt đô thị tại Hà Nội (Cát Linh - Hà Đông, Nhổn - Ga Hà Nội), từng bước kết nối đường sắt với các cảng biển, cảng cạn, khu kinh tế, khu mỏ và các trung tâm du lịch lớn.
Cải tạo, nâng cấp từng bước đưa vào cấp kỹ thuật đường sắt Quốc gia các tuyến: Hà Nội – Lào Cai, đoạn trong Vùng dài khoảng 42,5 km; Hà Nội – Hải Phòng dài khoảng 96 km; Đông Anh – Quán Triều dài khoảng 54,6 km, đoạn trong Vùng dài khoảng 18,5 km; Hà Nội – Đồng Đăng dài khoảng 156 km, đoạn trong Vùng dài khoảng 22,5 km.
Về quy hoạch phát triển vận tải, tổ chức vận tải hợp lý trên 6 hành lang vận tải chính gồm: Bắc – Nam; Hà Nội – Hải Phòng; Hà Nội – Quảng Ninh; Hà Nội – Lào Cai; Hà Nội – Lạng Sơn; Ninh Bình – Hải Phòng – Quảng Ninh.
Trong đó, hành lang Bắc – Nam gồm 4 phương thức vận tải: Đường bộ, đường sắt, đường biển, hàng không. Vận tải hàng hoá đường dài chủ yếu do đường bộ, đường biển và đường sắt đảm nhận. Vận tải hành khách đường dài sẽ chuyển một phần sang đường sắt và hàng không.
Hàng hoá và hành khách trên các cung đoạn ngắn và nội tỉnh chủ yếu do vận tải đường bộ đảm nhận. Đến năm 2020, vận tải hành khách bằng đường bộ chiếm 83% – 85%, đường sắt 5,8% – 6,2%, hàng không 8,8% – 9,2%; vận tải hàng hóa bằng đường bộ 76% – 79%, đường sắt 6% – 8%, đường biển 14% -16%, hàng không 0,12% – 0,16%.
Hành lang Hà Nội – Hải Phòng gồm 3 phương thức vận tải: Đường bộ, đường sắt, đường thuỷ nội địa. Vận tải hành khách chủ yếu sử dụng đường bộ và đường sắt. Vận tải hàng hoá chia sẻ giữa 3 phương thức vận tải đường bộ, đường sắt và đường thủy nội địa. Đến năm 2020, vận tải hành khách bằng đường bộ chiếm 96,5% – 97,5%; đường sắt 2,5% – 3,5%; vận tải hàng hóa đường bộ 65% – 68%; đường sắt 1% – 2%; đường thủy nội địa 31% – 33%.
Bên cạnh đó, tăng cường vai trò của vận tải đường sắt, đường thủy nội địa trên các hành lang vận tải chính kết nối với cảng biển, đặc biệt giữa Thủ đô Hà Nội với cảng biển Hải Phòng và Quảng Ninh; gắn liền tổ chức vận tải đường sắt với hoạt động cảng cạn để nâng cao hiệu quả khai thác, đẩy mạnh vận tải đa phương thức.
Nguồn: Sưu tầm